Thông tin chung
MÔ TẢ:
Octocaine 100 là dung dịch vô khuẩn isotonic chứa chất gây tê lidocain và tác nhân co mạch Epinephrin (dạng epinephrin bitartrat) và được truyền qua đường tiêm chích. Thuốc được đóng Dung dịch. Octocaine chứa chất lidocain HCI có cấu trúc hóa học như acetamic, 2- (diethvlamino)+N-(2.6-dimethylphenvl)-monohydrocloride và có công thức sau:
THÀNH PHẦN:
Mỗi ống 1,8 mL chứa:
Hoạt chất:
- Lidocain hydroclorid 36 mg
- Epinephrin bitartrat 0,032 mg
- Tá dược: Kali metabisulfit, natri chorid, dinatri edetat, hydrochloric acid, natri hydroxid, nước cất pha tiêm
DẠNG BÀO CHẾ
Dung dịch tiêm gây tê nha khoa.
TRÌNH BÀY
OCTOCAINE 100 (Lidocain hydroclorid 2% và epinephrin 1:100.000) dược đóng gói sẵn trong p giấy gồm 5 vi, mỗi vi 10 ống với dung lượng 1,8 ml.
Bảo quản trong phòng kiểm soát nhiệt độ dưới 30°C. Tránh ánh sáng. Không bảo quản đông lạnh.
Đóng hộp: Giữ trong hộp cho đen khi sử dụng để tránh ánh nắng trực tiếp. Một khi đã mở hộp ra thì sau đó phải đóng nắp lại. Không dùng nếu nó chuyển màu hồng nhạt hoặc màu vàng sậm hơi hoặc có kết tủa.
DƯỢC LỰC HỌC
Cơ chế hoạt động:
Lidocain làm ổn định màng nơ-ron bằng việc ngăn chặn những dòng ion đi vào của sự bắt đầu và sự dẫn truyền những xung động thần kinh do đó có tác dụng gây tê tại chỗ.
Thời điểm bắt đầu và khoảng thời gian gây tê:
- Khi gây tê thẩm thấu trong điều trị nha khoa, thời gian trung bình khởi phát tác dụng dưới 2 phút, khoảng thời gian gây tê tủy trung bình ít nhất 60 phút và mô mềm trung bình xấp xỉ 2,5 giờ.
- Khi sử dụng phong bế thần kinh trong điều trị nha khoa, thời gian khởi phát của Octocaine trung bình là 2 -4 phút, khoảng thời gian gây tê tủy trung bình ít nhất 90 phút và mô mềm trung bình 3 – 3,25 giờ.
Huyết động học:
- Nồng độ của thuốc trong máu quá lớn có thể làm thay đổi hiệu suất tống máu của tim, sức cản ngoại vi và huyết áp động mạch trung bình. Những thay đổi này có thể do tác dụng giảm đau trực tiếp của thuốc gây tê tại chỗ lên hệ thống tim mạch và/ hoặc tác dụng kích thích thụ thể beta-adrenergic của epinephrin.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Xuất phát từ công thức, nồng độ và cách dùng cho thấy lidocain được hấp thu hoàn toàn sau tiêm, tỷ lệ hấp thu phụ thuộc vào các yếu tố như vị trí tiêm và sự có mặt của tác nhân gây co mạch.
Ngoại trừ tiêm tĩnh mạch, nồng độ trong máu cao nhất đạt được sau khi phong bế thần kinh liên sườn và thấp nhất sau khi dùng dưới da. Liên kết huyết tương của lidocain phụ thuộc vào nồng độ của thuốc và một phần liên kết giảm đi khi nồng độ tăng. Tại nồng độ 1- 4 ug/mL dạng base tự do, sẽ có 60% – 80% lidocain liên kết protein. Sự liên kết cũng phụ thuộc vào nồng độ của alpha-I-acid glycoprotein trong huyết tương.
Lidocain đi qua hàng rào máu não và nhau thai do khuếch tán thụ động.
Lidocain chuyển hóa nhanh ở gan; dạng chuyển hóa và dạng không đổi đều đào thải qua thận. Sự chuyển hóa sinh học bao gồm sự khử N-alkyl oxy hóa, hydroxyl hóa vòng, sự phá huỷ liên kết amid và liên hợp. Khử N-alkyl là con đường chuyển hóa chính, tạo ra chất chuyển hóa chủ yêu là monoethylglycinexylidid và glycinexylidid. Hoạt tính dược học/độc tính của những chất chuyển hóa này cũng tương tự lidocain nhưng ở mức độ thấp hơn. Khoảng 90% lidocain đào thải dưới dạng những chất chuyển hóa và dưới 10% dạng không đổi. Chất chuyển hóa chủ yếu trong nước tiểu là sự liên hợp của 4-hydroxy-2, 6-dimethylanilin.
Nghiên cứu về cơ chế chuyển hóa của lidocain, sau khi tiêm một lượng lớn vào trong tĩnh mạch, thời gian bán thải của nó là từ 1,5 – 2 giờ. Vì lidocain chuyển hóa nhanh ở gan, nên bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng đến chức năng gan đều tác động đến dược động học của lidocain. Thời gian bán thải có thể kéo dài hơn hai lần ở những bệnh nhân bị rối loạn chức năng gan. Rối loạn chức năng thận không ảnh hưởng tới động học của lidocain nhưng có thể làm gia tăng sự tích lũy của các chất chuyển hóa. Các yếu tố như sử dụng chất kích thích hoặc chất ức chế hệ thần kinh trung ương ảnh hưởng đến nồng độ của lidocain trong hệ thần kinh trung ương cần có để gây ra những tác động hệ thống.
Tác dụng phụ gia tăng rõ rệt khi tăng nồng độ lidocain trong máu trên 6,0 ug/ml (dạng base). Ở loài khỉ nâu nồng độ thuốc trong máu 18- 21 ug/ml là ngưỡng gây co giật.
CHỈ ĐỊNH
Octocaine được chỉ định cho việc gây tê tại chỗ trong nha khoa bằng kĩ tiêm thấm hoặc gây tê vùng phong bế thần kinh.
Chỉ áp dụng cho các kĩ thuật này theo hướng dẫn trong các tài liệu chuẩn.
LIỀU LƯỢNG VÀ CÁCH DÙNG:
Liều dùng của OCTOCAINE (lidocain HCI và epinephrin) tùy thuộc vào thể trạng bệnh nhân, diện tích cần gây tê, tình trạng mạch máu của mô, và kĩ thuật gây tê. Nên dùng liều nhỏ nhất mà có hiệu quả tê. Thời gian giữa các lần tiêm phải đủ để theo dõi biểu hiện của bệnh nhân với những phản ứng bất lợi. Sử dụng những kĩ thuật và tiến trình đặc biệt để gây tê tại chỗ vùng miệng nên tham khảo các tài liệu y học chuẩn.
Đối với hầu hết các quá trình điều trị nha khoa, Octocaine 100 được chọn lựa. Tuy nhiên khi cần cầm máu nhanh thì nên sử dụng Octocaine 50.
Liều sử dụng nên được quyết định ở những cá thể riêng rẽ. Trong trường hợp gây tê tại chỗ hay gây tê vùng hàm dưới, liều đầu tiên 1,0-5,0 ml Octocaine thường được sử dụng rất hiệu quả.
Ở trẻ em dưới 10 tuổi rất hiếm khi cần phải tiêm nhiều hơn nửa ống mỗi quá trình điều trị để đạt được hiệu quả tê tại chỗ khi điều trị một răng riêng lẻ. Ở hàm trên lượng thuốc này đủ để điều trị 2 hoặc 3 răng. Tuy nhiên ở hàm dưới hiệu quả tê đạt được ở lượng thuốc này cho phép điều trị ¼ hàm. Khi tiêm, nên rút ngược bơm tiêm để giảm thiểu tiêm vào tĩnh mạch và tác dụng phụ. Hơn nữa việc bơm thuốc luôn được tiến hành từ từ.
Liều OCTOCAINE tối đa khuyến cáo dùng
Người lớn:
Đối với người trưởng thành khỏe mạnh bình thường, liều lidocain HCl nên giữ dưới 500 mg và trong bất cứ trường hợp nào cũng không nên vượt quá 7 mg/kg (3,2 mg/lb) thể trọng.
Bênh nhân nhi:
Rất khó để cho lời khuyên về lượng tối đa nên dùng cho trẻ em với bất cứ loại thuốc nào bởi vì nó phụ thuộc vào tuổi tác, cân nặng. Đối với trẻ em dưới 10 tuổi có trọng lượng cơ thể và tốc độ tăng trưởng bình thường, liều tối đa có thể được xác định bằng công thức thuốc chuẩn cho trẻ em (như chuẩn Clark). Ví dụ, bệnh nhân 5 tuổi với cân nặng là 501bs (Ilb tương đương 0,454 kg), liều lidocain hydroclorid không nên vượt quá 75-100 mg khi tính toán dựa trên chuẩn Clark.
Trong bất cứ trường hợp nào lượng lidocain hydroclorid tối đa không nên vượt quá 7 mg/kg (3,2 mg/lb) thể trọng.
Lưu ý: Những sản phẩm thuốc phải được kiểm tra về sự kết tủa và đổi màu trước khi tiêm thuốc, bất cứ khi nào sử dụng dung dịch. Các dung dịch bị đổi màu hoặc kết tủa thì không nên dùng và bất kì phần không dùng nào của ống thuốc OCTOCAINE phải được vứt bỏ
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Octocaine chống chỉ định ở những bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với thuốc gây tê tại chỗ dạng amid hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
KHUYẾN CÁO
Khi sử dụng thuốc gây tê tại chỗ trong nha khoa cần biết rõ về nguy cơ rủi ro xảy ra và cách xử lý. Dụng cụ sơ cứu, oxy và các thuốc cấp cứu khác luôn được chuẩn bị sẵn sàng. Để giảm thiểu nguy cơ tiêm vào tĩnh mạch nên kéo ngược bơm tiêm trước khi đẩy dung dịch thuốc tê vào. Nếu máu bị rút ngược ra thì chuyển chỗ mũi kim cho đến khi không có máu xuất hiện khi rút ngược bơm tiêm. Tuy nhiên, nên nhớ rằng không có máu xuất hiện trong bơm tiêm cũng không chắc chắn rằng đã không tiêm vào mạch máu.
Quá trình gây tê tại chỗ nên được sử dụng thận trọng khi vùng cần tiêm bị viêm và / hoặc nhiễm trùng.
Octocaine chứa potasium metabisulphit, sulphit có thể gây phản ứng dị ứng bao gồm triệu chứng phản vệ và đe dọa sự sống hoặc hen suyễn trầm trọng ở bệnh nhân nhạy cảm. Mức độ phổ biến của dị ứng sulphite trong cộng đồng chưa được biết hoặc rất thấp. Bệnh nhân hen suyễn bị dị ứng sulphite nhiều hơn bệnh nhân không hen suyễn.
Octocaine cũng như những loại thuốc tê khác, có thể gây methemoglobin. Những dấu hiệu lâm sàng là sự tím tái ở móng tay, móng chân, môi, sự mệt mỏi và suy nhược. Với trường hợp đã sử dụng oxy mà không đáp ứng thì khuyên dùng xanh methylen đường tĩnh mạch 1-2 mg/kg thể trọng trong khoảng 5 phút.
Hiệp hội tim mạch Mỹ đã có khuyến cáo về việc sử dụng thuốc tê tại chỗ có chứa chất làm co mạch cho bệnh nhân mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ: “Chỉ sử dụng chất co mạch trong dung dịch gây tê tại chỗ cho nha khoa khi thời gian dùng ngăn hoặc cảm giác tê kéo dài hơn. Khi sử dụng thuốc tê có chất co mạch thì phải thận trọng để tránh tiêm vào tĩnh mạch. Chỉ nên dùng chất co mạch lượng tối thiểu nhất có thể” (Kaplan, EL, Bệnh tim mạch trong thực hành nha khoa, Dallas 1986, Hiệp hội tim mạch Mỹ).
THẬN TRỌNG
Thận trọng chung:
Độ an toàn và hiệu quả của lidocain phụ thuộc vào liều lượng thích hợp, đúng kỹ thuật, sự thận trọng thỏa đáng, và việc chuẩn bị cấp cứu sẵn sàng.
Cần sử dụng liều thấp nhất mà có hiệu quả gây tê để tránh nồng độ cao trong máu và những phản ứng phụ nguy hiểm. Việc tiêm lidocain với liều lặp lại có thể làm tăng nồng độ trong máu với mỗi lần tiêm do sự tích tụ chậm của thuốc hoặc các chất chuyển hóa.
Dung nạp thuốc thay đổi tùy theo thể trạng của bệnh nhân. Đối với bệnh nhân già yếu, ốm mệt và trẻ em phải giảm liều, phù hợp với tuổi và thể trạng của họ.
Nếu dùng thuốc an thần để giảm sự căng thẳng của bệnh nhân, nên giảm liều khi gây tê tại chỗ vì tác nhân gây tê tại chỗ, các thuốc giảm đau đều gây ức chế hệ thống thần kinh trung ương, chúng có tác dụng cộng hợp khi kết hợp với nhau. Đối với trẻ em nên dùng liều thấp nhất với mỗi tác nhân.
Lidocain cần sử dụng thận trọng với bệnh nhân ngưng tim và bệnh nhân ghép van tim. Thuốc tê tại chỗ có chất co mạch nên được sử dụng cẩn trọng ở những bệnh nhân có dùng thuốc chống tắc nghẽn mạch máu và các bệnh về máu. Bệnh nhân có bệnh máu ngoại biên và bệnh tăng huyết áp có thể xảy ra phản ứng co mạch quá mức nên gây ra những tổn thương do thiếu máu cục bộ hoặc hoại tử. Tiêm thuốc tê có chất co mạch cũng nên thận trọng ở những bệnh nhân đang hoặc sau khi gây mê đề phòng loạn nhịp tim. Những dấu hiệu về hô hấp, tim mạch và tình trạng của bệnh nhân nên được theo dõi sau khi gây tê tại chỗ. Sự bồn chồn, lo lắng, ù tai, buồn ngủ, hoa mắt, run rẩy, suy yếu hoặc ngủ lơ mơ báo hiệu sự nhiễm độc hệ thần kinh trung ương. Dầu hiệu và triệu chứng của trụy mạch có thể bị gây ra bởi phản ứng thần kinh phế vị, đặc biệt nếu bệnh nhân ở tư thế ngồi. Trong trường hợp này đặt bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng.
Lidocain cũng nên sử dụng cân trọng ở những bệnh nhân bị bệnh gan bởi vì thuốc gây tê tại chỗ dạng amid được chuyển hóa ở gan. Bệnh nhân có bệnh gan nặng không có khả năng chuyển hóa thuốc tê tại chỗ một cách bình thường sẽ có nguy cơ cao về việc tăng nồng độ trong huyết tương gây ngộ độc.
Những loại thuốc tê sử dụng trong quá trình gây tê phải được xem xét đến những yếu tố gây khởi phát tăng thân nhiệt bởi vì chúng ta không thể biết được thành phần amid của thuốc gây tê tại chỗ có thể khởi phát phản ứng này hay không. Người ta khuyên rằng một phác đồ chuẩn nên được chuẩn bị sẵn sàng. Dấu hiệu tim đập nhanh, thở nhanh, huyết áp không ổn định, nhiễm toan chuyển hóa… có thể xuất hiện trước tăng thân nhiệt. Xử trí thành công phụ thuộc vào việc chẩn đoán sớm, dừng ngay các yếu tố nghi ngờ và điều trị kịp thời, gồm liệu pháp oxy, thuốc giãn cơ các yếu tố hỗ trợ khác.
Lidocain nên được sử dụng cần trọng ở những người có tiền sử nhạy cảm với thuốc. ở những bệnh nhân dị ứng với các dẫn xuất của para-amiobenzoic acid (procain, tetracain, benzocain, …) không cho phản ứng chéo với lidocain.
Sử dụng cho vùng đầu và cổ:
Tiêm một lượng thuốc tê nhỏ vào vùng đầu và cổ, bao gồm phía sau hành tủy, những khối hạch
giao cảm, có thể gây ra những phản ứng phụ giống như ngộ độc khi vô tình tiêm vào tĩnh mạch 1 lượng lớn thuốc tê. Lẫn lộn, co giật, hơi thở yếu hoặc nghẹt thở và kích thích hoặc trụy tim mạch đã từng xảy ra. Những phản ứng này có thể do tiêm thuốc tê vào động mạch chảy ngược vào tuần hoàn não. Những bệnh nhân gặp phải tình trạng này phải quan sát kiểm tra trạng thái tuần hoàn, hô hấp thường xuyên. Dụng cụ, thiết bị hồi sức để xử lý những phản ứng phụ phải luôn luôn có sẵn. Không nên sử dụng quá liều cho phép.
THÔNG TIN DÀNH CHO BỆNH NHÂN
Cần phải thông báo cho bệnh nhân về khả năng mất cảm giác tạm thời và chức năng cơ sau quá trình thẩm thấu hoặc phong tỏa thần kinh.
Bệnh nhân phải được khuyến cáo thận trọng để tránh việc vô ý gây chấn thương cho môi, lưỡi, má hoặc khẩu cái mềm khi những phần này được gây tê. Bởi vậy không nên ăn cho đến khi những chức năng này được khôi phục lại. Bệnh nhân cần được tư vấn nha sĩ nếu trạng thái tê kéo dài hoặc chứng phát ban phát triển.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Tiêm dung dịch thuốc tê tại chỗ có chứa epinephrin hoặc Nor-epinephrin cho bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế monoamine oxidase, chống trầm cảm 3 vòng hoặc phenothiazin có thể gây giảm huyết áp nghiêm trọng kéo dài hoặc tăng huyết áp. Nên tránh việc sử dụng đồng thời những chất này. Cần quan sát bệnh nhân nếu phải dùng đồng thời các thuốc này.
Sử dụng đồng thời thuốc co mạch và thuốc trợ đẻ loại ergot có thể làm tăng huyết áp liên tục hoặc tai biến mạch máu não.
OCTOCAINE đều chứa tác nhân co mạch (epinephrin), sử dụng đồng thời với thuốc chẹn beta adrenergic (proparanolol, timolol,…) có thể dẫn đến việc tăng huyết áp phụ thuộc liều và tim chậm, có thể block tim.
XÉT NGHIỆM CHẨN ĐOÁN
Tiêm bắp lidocain có thể dẫn đến việc tăng nồng độ creatin phosphokinase. Do đó, việc xác định enzym này mà không phân lập isoenzym như là một xét nghiệm chẩn đoán nhồi máu cơ tim cấp tính có thể không chính xác khi tiêm bắp.
CHẤT GÂY UNG THƯ, ĐỘT BIẾN GEN, SỰ SUY YẾU KHẢ NĂNG SINH SẢN
Nghiên cứu lidocain trên động vật để đánh giá những nguyên nhân gây ung thư và khả năng gây đột biến hoặc ảnh hưởng lên khả năng sinh sản vẫn chưa được xác định.
SỬ DỤNG CHO PHỤ NỮ MANG THAI
Những ảnh hưởng xấu lên thai nhi: Hạng B: Nghiên cứu lặp lại trên chuột với liều gấp 6,6 lần liều cho người mà không phát hiện được tác hại nào cho bào thai gây ra bởi lidocain. Tuy nhiên, không thích hợp để thử nghiệm nghiên cứu với phụ nữ có thai. Nghiên cứu trên động vật không phải lúc nào cũng dự đoán được kết quả trên con người. Nói chung, cần phải xem xét thực tế này trước khi tiêm lidocain cho phụ nữ mang thai, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của thai kì khi mà có sự hình thành các cơ quan nhiều nhất.
SỬ DỤNG CHO PHỤ NỮ ĐANG CHO CON BÚ
Cũng không biết được là thuốc này có được bài tiết qua sữa mẹ hay không. Vì có nhiều loại thuốc được bài tiết qua sữa mẹ, nên cần thận trọng khi sử dụng thuốc cho phụ nữ đang cho con bú.
SỬ DỤNG Ở TRẺ EM
Nên giảm liều dùng cho trẻ em, tương xứng với độ tuổi, cân nặng và tình trạng thể chất.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Tác dụng không mong muốn khi tiêm lidocain thì giống với những thuốc tê tại chỗ dạng amide khác. Nhìn chung những tác dụng bất lợi này thường liên quan đến liều dùng và có thể do nồng độ thuốc tròng huyết thanh cao (có thể do sử dụng quá liều, sự hấp thụ quá nhanh, vô ý tiêm vào tĩnh mạch hoặc sự đào thải chất chuyển hóa chậm), kĩ thuật tiêm, thể tích lượng thuốc tê tiêm vào, sự mẫn cảm và dung nạp thuốc. Nói chung, những tác dụng phụ nghiêm trọng tác động lên các hệ thống tự nhiên của cơ thể. Các loại thường gặp nhất:
Hệ thần kinh trung ương:
Những biểu hiện của hệ thần kinh trung ương là kích thích và/hoặc ức chế và có thể đặc trưng bởi sự mê sảng, bồn chồn, sợ hãi, trạng thái ngây ngất, lẫn lộn, choáng váng, ngủ lơ mơ, tiếng ù tai, / hoa mắt, nổn mửa, cảm giác nóng, lạnh hay tê cóng, co giật, rùng mình, chấn động, hôn mê, suy hô hấp và ngạt thở. Những biểu hiện kích thích có thể ngắn hoặc không hề xảy ra, trong trường hợp này biểu hiện đầu tiên của ngộ độc có thể là buồn ngủ pha lẫn hôn mê và ngạt thở.
Buồn ngủ sau khi tiêm lidocain thường là dấu hiệu sớm của việc tăng nồng độ thuốc trong máuvà có thể do việc hấp thụ quá nhanh.
Hệ tim mạch:
Biểu hiện trên tim mạch thường là ức chế và đặc trưng là nhịp tim chậm, tụt huyết áp và suy tim có thể dẫn đến ngừng tim.
Những dấu hiệu và triệu chứng của sự suy giảm chức năng tim mạch thường là do phản ứng thần kinh phế vị, đặc biệt khi bệnh nhân đang trong tư thế đứng. Ở mức độ ít hơn, cũng có thể là do ảnh hưởng trực tiếp của thuốc. Không nhận ra được những dấu hiệu báo trước như là đổ mồ hôi, cảm giác choáng váng, thay đổi nhịp tim, có thể dẫn đến thiếu oxy não hoặc tai biến tim mạch.
Xử lý bằng cách cho bệnh nhân nằm nghiêng và thở oxy. Hỗ trợ điều trị suy tuần hoàn có thể truyền dịch và dùng thuốc co mạch (như ephedrin) tùy tình huống lâm sàng.
Phản ứng dị ứng:
Các phản ứng dị ứng được biểu hiện trên da, mề đay, phù hoặc phản ứng phản vệ. Phản ứng dị ứng do mẫn cảm với lidocain rất hiếm xảy ra và nếu xảy ra thì cần được kiểm soát bằng những cách thông thường. Giá trị việc thử phản ứng dị ứng trên da chưa được khẳng định.
Phản ứng thần kinh:
Phạm vi ảnh hưởng của phản ứng bất lợi do sử dụng thuốc tê tại chỗ liên quan đến kĩ thuật dùng, liều dùng, thuốc đang sử dụng, đường dùng và thể trạng bệnh nhân.
Cảm giác tê kéo dài trên môi, lưỡi và cơ miệng khi sử dụng lidocain đã được thông báo với việc hồi phục chậm, không hoàn toàn, thậm chí không hồi phục. Những trường hợp này có thể xảy ra sau khi tiêm thuốc phong tỏa thần kinh xương hàm dưới liên quan đến dây thần kinh sinh ba và các nhánh của nó.
Thông báo cho bác sĩ các tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC ĐẾN KHẢ NĂNG LÁI XE VÀ VẬN HÀNH MÁY MÓC
Thận trọng vì thuốc có thể gây buồn ngủ, hôn mê, suy hô hấp, lẫn lộn, hoa mắt, co giật.
QUÁ LIỀU:
Những trường hợp cấp cứu từ thuốc tê tại chỗ thường liên quan đến nồng độ cao trong máu hoặc vô ý tiêm dung dịch thuốc tê vào khoang dưới nhện. (Xem Tác dụng không mong muốn, Khuyến cáo, Sự phòng ngừa).
Xử lý quá liều cấp
Quan tâm đầu tiên là công tác phòng ngừa, tốt nhất chuẩn bị đầy đủ, cẩn thận, thường xuyện theo dõi tim mạch, những dấu hiệu về hô hấp và tình trạng nhận thức của bệnh nhân sau mỗi lần tiêm thuốc. Nên thực hiện việc cung cấp oxy ngay khi có những dấu hiệu thay đổi đầu tiên.
Bước đầu tiên xử lý cơn co giật là duy trì ngay đường thông khí, hỗ trợ, kiểm soát sự thông khí bằng oxy và 1 hệ thống cung cấp khí với mặt nạ dưỡng khí.
Khi sử dụng những biện pháp thông khí này, cần phải điều chỉnh cho phù hợp, lưu ý rằng thuốc sử dụng để điều trị co giật đôi khi làm tuần hoàn khí sử dụng đường tĩnh mạch. Khi cơn co giật tiếp diễn bất chấp sự hỗ trợ hô hấp, thì tiêm tĩnh mạch 1 lượng nhỏ dẫn xuất tác dụng ngắn của barbituric acid (như là thiopental hoặc thiamylal) hoặc thuốc an thần (diazepam) nếu tuần hoàn cho phép. Bác sĩ lâm sàng phải biết rõ trước khi sử dụng thuốc tê với thuốc chống co giật này. Hỗ trợ điều trị suy tuần hoàn cần truyền dịch và nếu thích hợp dùng thuốc co mạch (ví dụ: ephedrin) tùy tình huống lâm sàng.
Nếu không điều trị co giật và suy tim ngay có thể dẫn đến việc giảm oxy huyết, nhiễm acid, tim chậm, loạn nhịp tim và ngừng tim. Nếu tim ngừng đập biện pháp hồi sức tim-phổi phải được áp dụng. Đặt ống nội khí quản, dùng thuốc và những kỹ thuật thường quy sau khi cho thở oxy nếu khó duy trì thông khí hay khi cần hỗ trợ hô hấp kéo dài.
Dùng kỹ thuật gây tê tiêm thấm thì ít xảy ra quá liều cấp tính của lidocain.
LD50 (IV) của lidocain HCI trên chuột cái là 26 (21-31)mg/kg và LD5o (SC) là 264 (203- 304)mg/kg.